Việt Nam nuôi giấc mơ tự sản xuất 50.000 ôtô một năm

Bộ Công Thương cho biết năm 2035 sẽ phát triển công nghiệp ôtô trở thành ngành công nghiệp quan trọng với công suất 50.000 chiếc một năm.

Theo thống kê của Bộ Công Thương, tính đến nay, ngành sản xuất ôtô có trên 400 doanh nghiệp, đa số có quy mô vừa và nhỏ. Tổng công suất lắp ráp thiết kế khoảng 460.000 xe một năm. Trong đó, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 47%, doanh nghiệp trong nước khoảng 53%.

Lắp ráp ôtô đạt 460.000 xe một năm

Bộ Công Thương đánh giá, bước đầu tại Việt Nam đã hình thành nên một ngành công nghiệp hỗ trợ, cung cấp một số phụ tùng cho sản xuất, lắp ráp ôtô trong nước. Ngân sách nhà nước được đóng góp đáng kể, công ăn việc làm cho khoảng 100.000 lao động được giải quyết.

Các chủng loại xe tải, xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng sản xuất trong nước đã đạt tỷ lệ nội địa hóa cao, đáp ứng về cơ bản thị trường nội địa. Một số loại sản phẩm đã xuất khẩu sang thị trường Lào, Campuchia, Myanmar, Trung Mỹ…

Việt Nam nuôi giấc mơ tự sản xuất 50.000 ôtô một năm

Tình hình tiêu thụ ôtô của Việt Nam qua từng năm. Đồ hoạ: K.Linh.

Tuy nhiên, Bộ cho hay vẫn còn nhiều tồn tại đối với tỷ lệ hoá xe cá nhân 9 chỗ ngồi.

Cụ thể, mục tiêu đề ra là 40% vào năm 2005, 60% vào năm 2010, song đến nay mới đạt bình quân khoảng 7-10% do đối với lĩnh vực sản xuất, lắp ráp xe chở người đến 9 chỗ ngồi, Việt Nam là nước đi sau trong khu vực so với các nước như Thái Lan, Indonesia, Malaysia.

Trong khi đó, trước khi đầu tư dự án lắp ráp tại Việt Nam, các tập đoàn ôtô lớn đều đã đầu tư các dự án sản xuất ôtô con có quy mô lớn trong khu vực. Công suất các dự án sản xuất xe con thường được tính toán cho thị trường khu vực, chứ không tính riêng cho quốc gia đặt nhà máy sản xuất. Thị trường xe con có sự cạnh tranh quyết liệt giữa các tập đoàn toàn cầu.

Riêng về ngành công nghiệp hỗ trợ công nghiệp ôtô, Bộ Công Thương nhận định đã hình thành mới chỉ sản xuất được một số ít chủng loại phụ tùng đơn giản, có hàm lượng công nghệ thấp như gương, kính, ghế ngồi, bộ dây điện, ắc quy, săm-lốp, sản phẩm nhựa. Chỉ một số ít doanh nghiệp đầu tư dây chuyền dập thân, vỏ xe.

Theo bộ này, do dung lượng thị trường nội địa nhỏ không đáp ứng được tiêu chí kinh tế theo quy mô sản xuất trong công nghiệp, cả trong việc lắp ráp xe, sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ. Hơn nữa, các nguyên vật liệu cơ bản như thép chế tạo, cao su, nhựa và chất dẻo phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu.

"Tất cả các điều đó làm cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất phụ tùng, linh kiện ôtô ít có lợi thế cạnh tranh do giá thành sản xuất cao", Bộ Công Thương nêu rõ. 

Bên cạnh đó, trình độ của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế. Các doanh nghiệp lắp ráp chưa quan tâm đến công nghiệp hỗ trợ cũng là một trong những hạn chế của ngành công nghiệp ôtô. 

Việt Nam nuôi giấc mơ tự sản xuất 50.000 ôtô một năm
Việt Nam nuôi giấc mơ sản xuất 50.000 ôtô một năm . Ảnh: Minh Anh.

Nuôi giấc mơ sản xuất 50.000 ôtô

Xuất phát từ thực tiễn trên, Bộ Công Thương định hướng giai đoạn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 phát triển công nghiệp ôtô trở thành ngành công nghiệp quan trọng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh, quốc phòng của đất nước.

Theo đó, ngành công nghiệp ôtô hình thành doanh nghiệp quy mô lớn, thu hút và tập trung các chính sách ưu đãi, hỗ trợ các doanh nghiệp có dự án đầu tư sản xuất các dòng xe ưu tiên có quy mô công suất trên 50.000 xe một năm và dự án sản xuất các bộ phận động cơ, hộp số, cụm truyền động.

Mục tiêu đặt ra là tập trung vào phát triển các sản phẩm xe con 9 chỗ ngồi phù hợp với người Việt Nam và xu hướng thế giới, tập trung và phát triển các chủng loại xe tải, xe khách sản xuất trong nước có lợi thế và các sản phẩm phục vụ nông nghiệp, nông thôn.

Một mục tiêu khác cũng được đặt ra là tỷ lệ nội địa hoá đối với sản xuất ôtô đến năm 2020, xe đến 9 chỗ đạt 30-40%, từ 10 chỗ trở lên đạt 35-45%, xe tải đạt 30-40%, xe chuyên dụng đạt 25-35%.

Mục tiêu đến năm 2025, xe đến 9 chỗ đạt 40-45%, từ 10 chỗ trở lên đạt 50-60%, xe tải đạt 45-55%, xe chuyên dụng đạt 40-45%.

Đến năm 2035, xe đến 9 chỗ đạt 55-60%, từ 10 chỗ trở lên đạt 75-80%, xe tải đạt 70-75%, xe chuyên dụng đạt 60-70%.

Theo Zing